scholarly journals SỐ LƯỢNG ỐNG TỦY CHÂN RĂNG CỦA RĂNG CỐI LỚN THỨ NHẤT HÀM DƯỚI TRÊN CONEBEAM CT TRONG ĐIỀU TRỊ NHA KHOA

2021 ◽  
Vol 502 (1) ◽  
Author(s):  
Huỳnh Kim Khang ◽  
Phạm Văn Khoa
Keyword(s):  
Viet Nam ◽  

Mục tiêu: Đây là nghiên cứu khảo sát trên phim ConeBeam CT nhằm xác định số ống tủy của răng cối lớn (RCL) thứ nhất hàm dưới ở người Việt Nam. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên 166 bệnh nhân chụp phim CBCT theo chỉ định của bác sĩ tại Trung tâm CT nha khoa Nguyễn Trãi, Thành Phố Hồ Chí Minh, trong thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2015 đến tháng 6/2016. Phim CBCT được chụp bằng máy chụp phim Picasso Trio (Ewoo Vatech, Korea) với các điều kiện và tư thế chuẩn của bệnh nhân cho chụp phim. Hình ảnh CBCT thu thập từ trung tâm CT đạt tiêu chuẩn chọn mẫu được quan sát trên máy tính màn hình phẳng 14 inches, độ phân giải 1366 x 768 pixel với phần mềm EzImplant CD viewer. Ghi nhận vị trí răng (răng 36 và răng 46), khảo sát số lượng ống tủy của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới trên hình ảnh CBCT: trong mặt phẳng ngang (Axial), di chuyển các lát cắt trên thiết diện ngang của ống tủy từ sàn tủy đến chóp. Quan sát theo thiết diện ngang ở những mức sau: miệng ống tủy, phần ba giữa chân răng, phần ba chóp chân răng. Quan sát ống tủy của từng chân răng của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới theo ba mặt phẳng. Xác định số lượng ống tủy. Kết quả: Tỉ lệ RCL thứ nhất hàm dưới có hai ống tủy, ba ống tủy, bốn ống tủy, lần lượt là 4,5%, 66,8% và 28,9%. Sự phân bố này khác biệt không có ý nghĩa theo giới tính và theo vị trí. Kết luận: Tỉ lệ RCL thứ nhất hàm dưới trên CONEBEAM CT có ba ống tủy chiếm đa số

2022 ◽  
Vol 508 (2) ◽  
Author(s):  
Đống Thị Kim Uyên ◽  
Phạm Văn Khoa ◽  
Huỳnh Kim Khang
Keyword(s):  
Viet Nam ◽  

Mục tiêu: Xác định các kích thước từ vách xương ngoài, trong đến vị trí cách chóp 3 mm của mỗi chân răng và bề rộng xương hàm dưới tại vị trí này ở vùng răng cối lớn thứ nhất hàm dưới ở người Việt Nam Phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên 166 bệnh nhân chụp phim CBCT theo chỉ định của bác sĩ tại Trung tâm CT nha khoa Nguyễn Trãi, Thành Phố Hồ Chí Minh, trong thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2015 đến tháng 6/2016. Phim CBCT được chụp bằng máy chụp phim Picasso Trio (Ewoo Vatech, Korea) với các điều kiện và tư thế chuẩn của bệnh nhân cho chụp phim. Hình ảnh CBCT thu thập từ trung tâm CT đạt tiêu chuẩn chọn mẫu được quan sát trên máy tính màn hình phẳng 14 inches, độ phân giải 1366 x 768 pixel với phần mềm EzImplant CD viewer. Ghi nhận vị trí răng (răng 36 và răng 46), phim cần đo được chuyển về chế độ xem gốc ban đầu (thao tác Reset all), với độ phóng đại 1,5 lần. Trong mặt phẳng ngang (Axial) di chuyển gốc trục tọa độ đến chính giữa mỗi chân răng của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới cần đo, đường cắt đứng dọc theo hướng ngoài – trong, chia chân răng thành hai phần tương đối bằng nhau. Trong mặt phẳng đứng dọc (Sagittal)  điều chỉnh đường cắt đứng dọc theo trục mỗi chân răng cần đo. Tiến hành vẽ và đo đạc trong mặt phẳng đứng ngang (Coronal) (độ phóng đại 2 lần). Xác định các kích thước tại vị trí mỗi chân răng. Kết quả: Đối với các RCL thứ nhất hàm dưới có hai chân, khoảng cách từ mặt ngoài XHD đến chóp chân gần và chân xa tại vị trí cách chóp 3 mm lần lượt là 2,31±0,99mm, 3,22±1,77 mm. Đối với các RCL thứ nhất hàm dưới có ba chân, khoảng cách từ mặt ngoài XHD đến chóp chân gần và chân xa ngoài và chân xa trong tại vị trí cách chóp 3 mm lần lượt là 2,41±1,09 mm, 2,22±0,98 mm, 8,66±1,23 mm. Kết luận: Chóp các chân răng của RCL thứ nhất hàm dưới nằm rất gần mặt ngoài xương hàm dưới, lưu ý các bác sĩ phẫu thuật nội nha cẩn trọng trong các thủ thuật điều trị phẫu thuật nội nha cho các răng này.


2021 ◽  
Vol 502 (1) ◽  
Author(s):  
Huỳnh Kim Khang ◽  
Phạm Văn Khoa
Keyword(s):  
Viet Nam ◽  

Mục tiêu: Xác định tỉ lệ xuất hiện răng cối lớn thứ nhất hàm dưới có hai chân, răng cối lớn thứ nhất hàm dưới có ba chân  ở người Việt Nam khảo sát trên phim ConeBeam CT. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên 166 bệnh nhân chụp phim CBCT theo chỉ định của bác sĩ tại Trung tâm CT nha khoa Nguyễn Trãi, Thành Phố Hồ Chí Minh, trong thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2015 đến tháng 6/2016. Phim CBCT được chụp bằng máy chụp phim Picasso Trio (Ewoo Vatech, Korea) với các điều kiện và tư thế chuẩn của bệnh nhân cho chụp phim. Hình ảnh CBCT thu thập từ trung tâm CT đạt tiêu chuẩn chọn mẫu được quan sát trên máy tính màn hình phẳng 14 inches, độ phân giải 1366 x 768 pixel với phần mềm EzImplant CD viewer. Ghi nhận vị trí răng (răng 36 và răng 46), sự xuất hiện của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới có hai chân, răng cối lớn thứ nhất hàm dưới có ba chân ở mỗi cá thể. Xác định số lượng chân răng của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới bằng cách: trong mặt phẳng ngang (Axial), di chuyển các lát cắt trên thiết diện ngang của chân răng từ đường nối men xê-măng đến chóp. Quan sát số lượng chân răng của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới theo ba mặt phẳng. Kết quả: RCL thứ nhất hàm dưới có hai chân với tỉ lệ 83,7%. Tỉ lệ người có RCL thứ nhất hàm dưới có ba chân là 16,3%. Sự xuất hiện của RCL thứ nhất hàm dưới có ba chân có thể đối xứng hoặc không đối xứng. Không có sự khác biệt về giới, vị trí xuất hiện liên quan đến tỉ lệ RCL thứ nhất hàm dưới có ba chân. Kết luận: Tỉ lệ răng cối lớn thứ nhất hàm dưới trên ConeBeam CT có hai chân chiếm đa số


2010 ◽  
Vol 13 (3) ◽  
pp. 5-20
Author(s):  
Loc Duc Nguyen

The Vietnamese Catholic community is not only a religious community but also a traditional village with relationships based on kinship and/or sharing the same residential area, similar economic activities, and religious activities. In this essay, we are interested in examining migrating Catholic communities which were shaped and reshaped within the historical context of Viet Nam war in 1954. They were established after the migration of millions of Catholics from Northern to Southern Viet Nam immediately after Geneva Agreement in 1954. Therefore, by examining the particular structural traits of the emigration Catholic Communities we attempt to reconstruct the reproducing process of village structure based on the communities’ triple structure: kinship structure, governmental structure and religious organization.


Keyword(s):  

Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu thứ cấp, bài viết đưa ra một số vấn đề lý luận về hoạt động giáo dục kỹ năng và tư duy sáng tạo (GDKN&TDST), đồng thời tìm hiểu thực trạng công tác giáo dục, phát triển kỹ năng, tư duy sáng tạo hiện nay ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) đang diễn ra mạnh mẽ với những yêu cầu ngày càng cao về đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao, các trường đại học, các tổ chức trong nước đã bắt đầu quan tâm đến việc phát triển các kỹ năng, tư duy sáng tạo. Điều này được thể hiện ở việc đã có nhiều trung tâm, viện nghiên cứu được thành lập tại các trường đại học. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng, bài viết đưa ra một số đề xuất cho hoạt động GDKN&TDST trong các trường đại học ở Việt Nam.


2019 ◽  
Vol 5 (1b) ◽  
pp. 41-53
Keyword(s):  

Matsusaka momen (松阪木綿) là loại vải bông nổi tiếng của vùng Ise, Nhật Bản. Với đặc điểm là hoa văn sọc dọc lấy màu chàm làm chủ đạo, trong thế kỷ XVIII, chỉ riêng ở Edo, số lượng vải chàm Matsusaka được tiêu thụ hằng năm tương đương với một nửa dân số sống trong thành. Nhiều thương nhân xuất thân từ Matsusaka, nhờ buôn bán vải chàm và thuốc nhuộm, đã phát triển thành các tập đoàn thương mại lớn, tiêu biểu là dòng họ Mitsui. Một số nhà nghiên cứu Nhật Bản cho rằng nguồn gốc của hoa văn sọc trên vải chàm Matsusaka liên quan đến “liễu điều bố” do thương nhân Kadoya Shichirobee (角屋七郎兵衛,1610 -1672) gửi về từ Hội An. Bài viết này tổng kết nghiên cứu của tác giả trong 5 năm (2013-2018) liên quan đến nguồn gốc hoa văn trên vải chàm Matsusaka và trình bày giả thuyết về mối quan hệ của hoa văn này với vải thổ cẩm của Việt Nam Ngày nhận 29/3/2019; ngày chỉnh sửa 06/5/2019; ngày chấp nhận đăng 31/5/2019


2019 ◽  
Vol 5 (1) ◽  
pp. 118-127 ◽  
Keyword(s):  

Việt Nam học là một ngành khoa học có mã số độc lập, có đối tượng và phương pháp tiếp cận mang đặc thù tương đối. Cũng như các khái niệm “Huế học”, “Hà Nội học”, Việt Nam học chọn hướng nghiên cứu, khai thác những khía cạnh đặc trưng của đất nước, con người và văn hóa Việt Nam ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Tôn giáo, tín ngưỡng là một bộ phận cấu thành nền văn hóa Việt Nam. Dù là tôn giáo ngoại nhập hay tôn giáo nội sinh thì các tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam đều đã mang những đặc trưng riêng gắn với đặc điểm vị trí địa lý, tâm thức cũng như văn hóa truyền thống của người Việt Nam. Xác định Việt Nam học là một chuyên ngành độc lập, việc lựa chọn công trình nghiên cứu (của cả giảng viên, sinh viên) và nội dung giảng dạy học phần về tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam cho chuyên ngành Việt Nam học hiện nay cần phải chọn góc tiếp cận chủ yếu là chuyên ngành này để làm rõ, nổi bật yếu tố “Việt Nam” ẩn chứa trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, góp phần bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa. Đồng thời, thông qua đó, chúng ta khẳng định thêm Việt Nam học là một hướng nghiên cứu có lối đi riêng. Bằng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu và khái quát hóa, bài viết này sẽ trình bày một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan, trong đó trực tiếp đề cập đến vấn đề khái niệm, hướng tiếp cận chuyên ngành Việt Nam học, từ đó đề xuất những nội dung nghiên cứu và giảng dạy tôn giáo và tín ngưỡng Việt Nam trong đào tạo chuyên ngành này hiện nay. Ngày nhận 07/11/2018; ngày chỉnh sửa 13/01/2019; ngày chấp nhận đăng 28/02/2019


2019 ◽  
Vol 5 (1) ◽  
pp. 37-53

Trên thế giới, nhiều nghiên cứu về tự trọng đã được tiến hành trên nhóm khách thể là trẻ em và trẻ vị thành niên, tuy nhiên nhóm người trưởng thành từ 18 tuổi trở lên lại chưa nhận được sự quan tâm thích đáng. Ở Việt Nam, tình hình cũng tương tự, đặc biệt, các nghiên cứu về sự thỏa mãn nhu cầu tự trọng (Self- Esteem) tiếp cận dựa trên khung lý thuyết của Abraham Maslow còn rất thiếu vắng. Mục đích của nghiên cứu này nhằm mô tả sự thỏa mãn nhu cầu tự trọng của 301 người trưởng thành, độ tuổi 18 - 60 (Mean = 34.6, SD = 0.77) tại Việt Nam tiếp cận theo lý thuyết về Tháp nhu cầu của A. Maslow. Thang đo sự thỏa mãn nhu cầu tâm lý (Psychological Needs Satisfaction) của David Lester và cộng sự (1990), được sử dụng trong nghiên cứu này. Kết quả nghiên cứu cho thấy: (i) Sự thỏa mãn nhu cầu tự trọng của người trưởng thành tại Việt Nam có điểm số trung bình cao nhất trong số 5 nhu cầu theo lý thuyết của A.Maslow; (ii) Các nhu cầu trong năm nhu cầu theo khung lý thuyết đều có mối tương quan mạnh với nhau, trong đó tương quan mạnh nhất là sự thỏa mãn nhu cầu tự trọng với nhu cầu hiện thực hóa bản thân; (iii) Có sự khác biệt về sự thỏa mãn nhu cầu tự trọng giữa các nhóm tuổi khác nhau và giữa các nhóm trình độ học vấn khác nhau, tuy nhiên chưa đủ bằng chứng để kết luận có sự khác biệt theo tiêu chí giới tính, địa bàn nghiên cứu, kiểu tính cách và mức thu nhập. Ngày nhận 01/10/2018; ngày chỉnh sửa 5/12/2018; ngày chấp nhận đăng 28/2/2019


Keyword(s):  
Viet Nam ◽  

Vùng biên giới Lào Cai (Việt Nam) - Vân Nam (Trung Quốc) là một bộ phận quan trọng của vùng biên giới Việt - Trung. Hai tỉnh này đều có một vị trí địa chính trị quan trọng và có những đặc trưng của vùng, trong đó có những đặc trưng về văn hóa. Nhìn chung, điều dễ nhận thấy là cả hai tỉnh đều có những nét văn hóa rất nổi trội. Cụ thể, đây là vùng có sự đa dạng về tộc người, do đó có sự đa dạng về văn hóa và ngôn ngữ tộc người. Tuy nhiên, vẫn có sự thống nhất trong đa dạng ở khu vực này. Bên cạnh đó, giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các tộc người cũng là quy luật tất yếu và xu hướng chung của các tộc người ở vùng biên giới. Trong đó, nổi bật là sự giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc thiểu số (DTTS) với tộc người đa số, giữa các DTTS ở nội vùng biên giới và xuyên biên giới. Điều này vừa góp phần tạo nên sự đa sắc của văn hóa vùng biên và hội nhập của các dân tộc nhưng đồng thời nó cũng có thể gây ra sự phức tạp và tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định về an ninh, chính trị ở vùng biên giới.


Sign in / Sign up

Export Citation Format

Share Document